Đoạn văn ngắn triển khai khoảng 4-5 câu
Câu chuyện thú vị về quan trường
Rất tiếc, tập tự truyện viết bằng chữ Hán này sau này bị thất lạc mất 2 trong 5 quyển, và chưa được xuất bản để đến với công chúng rộng rãi. Mặc dù vậy, những người yêu thích lịch sử cũng có thể đọc được 3 quyển còn lại trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển do Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên – Huế phát hành, số 5 (103), năm 2013, với bản dịch của dịch giả Trần Đại Vinh.
Cuốn tiểu sử cho biết Tôn Thất Đàn là dòng dõi Tôn Thất, thuộc phòng Cương quận công. Cha ông là Tôn Thất Nhẫn, từng làm Tri phủ Khoái Châu (Hưng Yên), sau giữ chức Bang biện tỉnh vụ Thanh Hóa, mất khi đi công cán ở vùng thượng du năm 36 tuổi. Ông sinh ra trong cảnh nhà thanh bạch, neo đơn, dù cố gắng học tập nhưng đường thi cử cũng rất gian nan.
Mãi năm 1897, khi đã 27 tuổi, ông mới thi đậu cử nhân, và là người khai khoa trong phòng Cương quận công. Năm sau, ông đi thi Hội nhưng không đủ điểm lấy học vị Tiến sĩ, và chuyển sang học tiếng Pháp tại trường Quốc học Huế. Sau hai năm, ông thi đỗ thứ nhì và bắt đầu bước chân vào hoạn lộ.
Tự truyện của Tôn Thất Đàn thẳng thắn kể lại những cay đắng trong đời sống riêng của ông, như việc sau khi cưới vợ, sinh được con trai đầu chưa đầy năm thì vợ ông thấy cuộc sống nghèo khó quá, đã xin ly dị, và ông đành tự nuôi con nhỏ.
Ông cũng thẳng thắn kể chuyện khi học ở trường Quốc tử giám, nguyệt bổng được 24 quan đủ tiêu dùng nhưng ông còn làm văn thuê cho các công tử, mỗi tháng cũng thu được 12 quan nữa. Hay trong kỳ thi Hương, thì cũng có người cậy nhờ, nên mới vào trường nhất đã được đền đáp vàng bạc, đủ trả xong khoản vay cưới vợ lần hai.
Sau khi thi đỗ trường Quốc học, Tôn Thất Đàn được bộ Lại ghi vào danh sách những người có khả năng bổ đi làm Tri phủ. Nhưng ông kể lại "tệ mua quan bán chức lúc đó đã thịnh hành, tôi không biết cậy nhờ nên chỉ được bổ Tri huyện Bình Khê (huyện Tây Sơn, Bình Định ngày nay)”.
Đường làm quan của ông cũng rất trắc trở, khi vừa đưa gia đình vào Bình Định nhậm chức được 2 tháng thì mẹ ông bị thương hàn và qua đời tại đây, khiến ông phải xin nghỉ việc đưa linh cữu mẹ về Huế an táng và chịu tang. Đến năm 1902, do sự khuyên bảo của vị Phó Chưởng giáo trường Quốc học Ngô Đình Khả, ông mới được bổ làm Tri huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Quyển 2 và 3 của hồi ký này bị thất lạc nên chúng ta không được biết con đường làm quan của ông từ năm 1903 đến 1920. Đây là thời gian ông liên tục thăng tiến trên quan lộ, lần lượt trải qua các chức Tri phủ phủ Diễn Châu (Nghệ An) từ năm 1907, Phủ thừa phủ Thừa Thiên từ năm 1910, Án sát tỉnh Quảng Bình từ năm 1913, Án sát tỉnh Quảng Nam từ năm 1916, Bố chính tỉnh Nghệ An từ năm 1917, Bố chính tỉnh Bình Thuận từ năm 1919, Tham tri bộ Binh từ năm 1920.
Trong quyển 4 của tập hồi ký, Tôn Thất Đàn kể lại những câu chuyện về việc triều đình Huế điều tra vụ án Thượng thư bộ Công Đoàn Đình Duyệt làm trái, hay vụ điều tra kẻ gửi thư nặc danh tố cáo người tụ tập làm loạn với diễn biến ly kỳ không kém trong các sách trinh thám.
Phần kể về giai đoạn ông giữ chức Tuần vũ Trị Bình (Quảng Trị - Quảng Bình), các vụ xử kiện, giải quyết tranh chấp của người dân, các làng, giữa bên lương và bên giáo… cũng được ông ghi chép cẩn thận.
Khi ông giữ chức Tổng đốc An Tĩnh, ông cũng ghi lại câu chuyện phá vụ án phao tin tố cáo làng Nam Kim mưu đồ nổi loạn bằng cách cho gia nhân và thư ký của mình đi do thám, điều tra rất hữu hiệu.
Những cuộc tranh đấu trong triều đình
Quyển 5 của tập hồi ký của Tôn Thất Đàn kể rằng sau khi vua Khải Định qua đời, ông đã muốn từ chức nhưng không được chấp thuận, phải trở lại Nghệ An. Nhưng lúc đó, người con trai thứ của ông bị tai nạn lật xe chết, nên ông khi ông đưa con về Huế an táng đã quyết tâm từ nhiệm Tổng đốc An Tĩnh. Dù Viện cơ mật và Toà Khâm sứ cố khuyên ông trở lại làm Tổng đốc không được, nên đã bổ ông làm Thượng thư bộ Hình sung Đại thần Viện Cơ mật, sau đó là kiêm nhiếp Tôn Nhơn phủ.
Các trang hồi ký của Tôn Thất Đàn cho biết trong thời gian vua Bảo Đại du học bên Pháp, triều đình Huế hoạt động như thế nào, với những sự kết bè kéo cánh của các vị Thượng thư, các cuộc mua quan bán chức, cuộc tranh chấp quyền lực giữa Viện trưởng Viện Cơ mật Nguyễn Hữu Bài và Phụ chính thân thần Tôn Thất Hân, hay sự can thiệp thô bạo của các quan Pháp vào chính quyền Nam triều.
Tháng 3/1931, Tôn Thất Đàn cầm đầu một phái bộ sang Pháp thăm vua Bảo Đại đang du học và dự hội chợ đấu xảo, cũng như báo cáo tình hình trong nước và quan sát nước Pháp. Ông đã đi thăm rất nhiều tỉnh thành của Pháp và đưa ra nhận xét: "Về khéo léo hoa lệ thì chưa dám nghĩ đến, duy việc cần kiệm, kiên nhẫn, thì người nước ta mười phần chưa được hai, ba. Còn như mỹ tục giữ lễ nhượng, ngăn chặn gian phi, thương người xa tới, vui giao tiếp và yêu nước, đoàn kết, người nước ta vạn phần chưa được một, hai".
Sau khi vua Bảo Đại “hồi loan” và chính thức chấp chính, ông hậm hực khi chứng kiến Viện trưởng Viện Cơ mật Nguyễn Hữu Bài trong chuyến đi kinh lý cùng vua Bảo Đại ra các tỉnh Bắc miền Trung cùng vua Bảo Đại: "Chuyến đi này Viện trưởng nhằm khoa trương thanh thế, các tỉnh trọng đãi như phó vương, ngồi nằm sánh ngang chỗ vua ngự".
Đến ngày 2/5/1933, vua Bảo Đại cho cùng một lúc 5 Thượng thư thế hệ cũ về hưu, gồm Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài, Bộ Lễ Võ Liêm, Bộ Hình Tôn Thất Đàn, Bộ Binh Phạm Liệu và Bộ Công Vương Tứ Đại. Sự kiện này đã được người đương thời viết thành bài thơ nổi tiếng mở đầu bằng câu “Năm cụ khi không rớt cái ình…”, ghép tên đầy đủ năm vị Thượng thư và năm bộ rất độc đáo.
Chính phủ Nam triều được chuyên giao sang những vị Thượng thư Tây học, như Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn. Về hưu, Tôn Thất Đàn mới được phong tước Phù Nhân nam.
Cuốn hồi ký khép lại bằng sự kiện Tôn Thất Đàn cùng các vị trong hoàng tộc như Tôn Thất Hân, Hồng Thiện, Tôn Thất Trạm, Tôn Thất Tế, Ưng Ân, Ưng Bình... muốn dâng sớ ngăn cản việc vua Bảo Đại cưới Nam Phương Hoàng hậu vì bà là người Công giáo nhưng không thành.
Cuốn hồi ký giúp cho người đọc thấy được bức tranh lịch sử xã hội sinh động của đất nước suốt một thời gian dài từ cuối thế kỷ 19 đến những năm 30 của thế kỷ 20.
Bài văn hay Em hãy giới thiệu đất nước, con người Việt Nam qua thơ hay nhất:
Tôi rất hân hạnh được giới thiệu với các bạn đất nước và con người Việt Nam.
Văn học thuần túy đã lột tả từ hiện thực xã hội rõ ràng nhất. Đó là tấm gương phản ánh chân thực đất nước Việt Nam, nhìn vào đó chúng ta có thể hiểu được “Người Mẹ” của mình, đặc biệt là trong các tác phẩm thơ.
Mời các bạn đến thăm xứ dừa và măng cụt, thăm làng sen của Bác Hồ – vị lãnh tụ kính yêu, người cha kính yêu của dân tộc ta; thăm sông Bạch Đằng, sông Cửu Long; đọc “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Truyện kiều” của thiên tài Nguyễn Du, “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh.
Các bạn thân mến! Bạn và tôi cũng có chung niềm tự hào là người dân của Tổ quốc Việt Nam. Thiên nhiên và khí hậu của đất nước chúng ta không phải không có những khó khăn và khắc nghiệt. Tuy nhiên, sự ưu ái đó không hề nhỏ. Thiên nhiên đã ban tặng cho đất nước chúng ta những cảnh quan và danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, làm say đắm trái tim của biết bao du khách với vẻ đẹp quyến rũ và nên thơ:
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ.
Bên cạnh ngọn hải đăng Hồ Tây, đền Trấn Vũ, khu Thọ Xương đẹp quá phải không? Một cơn gió nhẹ lay động những cành hoa thanh mảnh, tao nhã, bạn có thể nghe thấy tiếng chuông nhỏ, tiếng mài vỏ cây làm giấy, tiếng tích tắc chậm rãi của đồng hồ… bình yên và ấm áp. Chỉ qua một câu hát, bạn có thể hình dung ra thủ đô Hà Nội ngàn năm tuổi. Đó cũng là nét đẹp chung của đất nước Việt Nam.
Thiên nhiên cảnh vật nước ta vẫn “rộn ràng sắc màu tươi vui” (Hoài Thanh – Hoài Chân):
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh
Đồi thoa son nằm, dưới ánh bình minh
Nghệ thuật nhân cách hóa, ẩn dụ của Đoàn Văn Cừ trong bài thơ trên được kết hợp hài hòa, khéo léo. Cảnh vật như thổi vào tâm hồn sôi nổi, nóng bỏng: “Nắng” nghịch ngợm “chớp” say sưa không biết mệt mỏi, sương “giọt” trên tựa lưng. “Uống sữa”- ta thích ngắm hương thơm ngọt ngào của sữa mẹ; Núi đỏ rực, mùa thu đổi mình trong “áo dài xanh” và “màu đỏ son”. Cảnh đẹp, rộn ràng nhưng không ồn ào, thấm đẫm bản sắc dân tộc với “chiếc áo xanh”.
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang
Tâm hồn quan sát của thi sĩ Hàn Mặc Tử rất nhạy bén. Ông nắm bắt được những rung động tinh tế của cảnh vật: “nắng lơ lửng”, “khói mơ” và trẻ trung, vui tươi. Lời cảnh báo vừa thực, vừa mơ, vừa ảo vừa ngây thơ. Mùa xuân chín sắc nhưng không rực rỡ, vui tươi. Một mùa xuân rất Việt Nam.
Không chỉ vậy, người Việt trong lao động sản xuất cũng rất đáng ngưỡng mộ trong trang phục của họ.
Có ai về quê hương mình, về sông Hồng mùa lũ, tận mắt chứng kiến những dòng nước xoáy dữ dội, sóng ngược, lũ bọt tung tóe để hiểu hết “sự giày xéo, gian khổ” của người dân khi lao động. Họ lao động cần cù, dũng cảm.
Sau đây, mời các bạn cùng xem cảnh người nông dân đang cày ruộng:
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Dẻo thơmmột hột, đắng cay muôn phần
Công việc “cày ruộng” là công việc thú vị nhất trong các công việc đồng áng. Nhưng tại sao buổi “trưa” lại khiến cho công việc cày ruộng được chú ý? Cái nắng nông giữa trưa đến bỏng lưng, công việc dù có thú vị vẫn rất cực khổ, “mồ hôi” đổ ra, túa ra “như mưa ngoài đồng”. Những người nông dân cần cù làm ra sản phẩm: “Hạt cay một hạt”. Dù vất vả đến thế, dù gian nan đến thế, nhưng họ vẫn cần mẫn như những chú ong, không ngại gian khổ, không ngại khó khăn.
Đất nước Việt Nam ta không chỉ có phong cảnh bình dị mà hữu tình, thiên nhiên đất nước ta còn mang một phong thái hùng vĩ, tráng lệ, ghi đậm dấu ấn lịch sử:
Ngạc chặt kình băm non lởm chởm
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng
Nguyễn Trãi – bằng ngòi bút thần thánh của mình, đã vẽ nên diện mạo hùng vĩ của cửa biển Bạch Đằng, khắc rõ dấu ấn lịch sử của cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc mình. Cảnh tượng đó: mỗi dãy núi trông giống như xác cá voi bị chặt thành từng khúc, và dưới lòng sông là một “ngọn giáo đắm tàu”. “Thiên tài của nhân dân”, những điều đó đã khắc sâu trong lòng mỗi người dân. Địa hình hiểm trở nơi đây đã góp phần mang lại cho dân tộc ta một chiến thắng vẻ vang và lừng lẫy.
Rừng Trường Sơn – đó là khu rừng mà quân dân ta đã cùng nhau “xẻ dọc” để cùng nhau “cứu nước”.
… Rừng Trường Sơn nhòa trong trời lửa
“Phố thị sơn trang”, chỉ vài câu thơ cũng đủ khiến bạn “nằm” giữa cảnh rừng cây mùa lá đổi màu. Cả rừng lá rụng, thay đổi theo vòng tuần hoàn của vũ trụ. Những chiếc lá đỏ “rì rào” rồi rơi xuống, thắp lên một “bầu trời” tươi sáng…
Bạn thấy đấy, đất nước chúng ta tươi đẹp đến nỗi Tố Hữu phải thốt lên:
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca
Rất đẹp, rất kỳ diệu. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn có bề dày lịch sử hàng nghìn năm văn hiến. Việt Nam đã vượt qua giông bão, sóng gió để dũng cảm và vững vàng tiến về phía trước.
Ngay cả những cuộc phiêu lưu mạo hiểm nhất, “khó khăn” nhất và “bền bỉ” nhất. Tuy nhiên, biết sống trong quá khứ, phát triển không ngừng mà đất nước ta vẫn chậm rãi “tiến lên”, vẫn bước thẳngluwng và không ngừng cố gắng. Nhà thơ Huy Cận hát về đất nước của mình:
Vạn năm từ thuở ấu thơ loài người
Việt Nam! Ta gọi tên người thiết tha
Đất nước tôi là đơn giản mà đẹp hào hùng. Thiên nhiên đất nước ta tươi đẹp, giản dị mà nên thơ, tinh tế, một đất nước văn minh, biết vươn lên từ những gì mình có, biết phát huy vẻ đẹp “đẹp khắp bốn phương, bốn mùa một màu trời đất” (Lê Anh Xuân – Việt Nam). Chúng tôi rất tự hào khi là những người con của một đất nước như vậy.
“Lạc viên tiểu sử” là câu chuyện đời, chuyện quan trường thú vị của vị quan từng nắm các chức vụ quan trọng như Tổng đốc Nghệ An, Thượng thư bộ Hình, Tôn nhơn lệnh phủ Tôn Nhơn.
Lớp trẻ ngày nay gần như không thể hình dung cuộc sống quan trường ở Việt Nam thời phong kiến như thế nào. Gần đây, có cuốn sách Khúc tiêu đồng (NXB Trẻ), hồi ký của cụ Hà Ngại, người từng làm quan ở khắp các tỉnh trong nam ngoài bắc, về hưu ở chức Tuần vũ Kon Tum, có cho biết một phần về sinh hoạt của các vị quan xưa.
Cuốn tự truyện Lạc Viên tiểu sử của Tôn Thất Đàn (1871-1936) cũng đem lại cho độc giả những câu chuyện thú vị, hấp dẫn như vậy, khi tác giả không những là người trong tôn thất, có nhiều dịp tiếp xúc với các vị vua triều Nguyễn, mà còn từng làm quan đến những chức vụ cao nhất trong chính quyền phong kiến, như Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), Thượng thư bộ Hình, Cơ mật viện đại thần. Ông còn được giao kiêm nhiệm chức Tôn Nhơn lệnh Tôn Nhơn phủ, tức là người đứng đầu cơ quan quản lý tất cả các thành viên trong Hoàng tộc triều Nguyễn.